Đề tài Độc lập cấp Quốc Gia “Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về Bình đẳng giới phục vụ phát triển bền vững” (Mã số: 02/22-ĐTĐL.XH-XNT)
Sáng 13/03/2023, Hội thảo Bình đẳng giới trong hệ thống chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước và những vấn đề đang đặt ra đã được Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội. Hội thảo là hoạt động nằm trong khuôn khổ Đề tài độc lập cấp quốc gia “Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về Bình đẳng giới phục vụ phát triển bền vững” (Mã số: 02/22-ĐTĐL.XH-XNT) do PGS.TS Trần Thị Minh Thi làm chủ nhiệm.
Hội thảo đã thu hút sự tham gia của đông đảo các đại biểu là các chuyên gia, nhà quản lý, các nhà nghiên cứu của Việt Nam và các giáo sư, nhà nghiên cứu.
Tại Hội thảo, tham luận Một số vấn đề về gia đình, sinh đẻ và giới ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS Trần Thị Minh Thi và tham luận Giới thiệu nghiên cứu, khảo sát quốc gia về bình đẳng giới ở Việt Nam của ThS. Đặng Thanh Nhàn đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi, thảo luận từ các đại biểu.
Theo ThS. Hà Thị Minh Khương, năm 2014 Việt Nam có luật cho phép mang thai hộ đối với những trường hợp có vấn đề về tử cung với mục đích nhân đạo và những người mang thai hộ này phải là những người trong gia đình, tức là phải có quan hệ huyết thống như anh chị em ruột, điều này khác với 1 số nước trên thế giới. Đối với Luật Hôn nhân gia đình có 10 điều quy định rất rõ về Mang thai hộ: như đăng ký, giải quyết tranh chấp v.v.Ở Việt Nam hiện nay có 4 cơ sở được phép làm việc này, gồm: Bệnh viện phụ sản Trung ương, bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Hùng Vương và Bệnh viện Tâm Đức.
Theo PGS.TS Trần Thị Minh Thi, ở Việt Nam giá trị gia đình, giá trị con cái cũng đều rất quan trọng. Mức sinh của phụ nữ Việt Nam là khoảng 2,09 con. Như vậy đa số phụ nữ Việt nam đều có con, cho nên trường hợp mang thai hộ ở Việt Nam là những trường hợp bất khả kháng. Điều tra ở Nghệ An (1 tỉnh của Việt Nam có mức sinh cao và giàu có) cho thấy, những người càng giàu thì lại càng sinh nhiều. “Lý do ở đây là họ không thích từ thiện, mọi tài sản của họ làm ra thì con họ phải được hưởng. Vì vậy giá trị con cái với người Việt Nam rất quan trọng”.
Trao đổi về vấn đề LGBT, theo TS. Nguyễn Thị Minh Phương, luật pháp Việt Nam chưa công nhận về đồng tính nhưng thể chế không cấm, cũng nên có sự tôn trọng những người đồng tính. Luật pháp Việt Nam đối mặt với một vấn đề có công nhận quyền của một gia đình, quyền con người của những gia đình đồng tính, những gia đình nằm ngoài hôn nhân hay không. Đây cũng là thách thức đối với pháp luật Việt Nam, vì hiện tại pháp luật Việt Nam mới công nhận quyền của con người thông qua những gia đình trong hôn nhân.
Kết luận tại Hội thảo, PGS.TS Trần Thị Minh Thi ghi nhận ý kiến của các chuyên gia, đồng thời mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chia sẻ kinh nghiệm và đóng góp ý kiến đối với đề tài, đặc biệt là ở 7 lĩnh vực: bình đẳng giới trong chính trị, lãnh đạo, quản lý; giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ; bình đẳng giới trong kinh tế, lao động, việc làm; bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe; bình đẳng giới trong gia đình; phòng ngừa và ứng phó bạo lực trên cơ sở giới; bình đẳng giới trong ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và thảm họa.