Quảng Ngãi là tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ của Việt Nam có diện tích 5.152,7 km²; cách thành phố Đà Nẵng 146 km, cách thủ đô Hà Nội 908 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 820 km về phía Nam (tính theo đường Quốc lộ 1A); là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng Nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Tỉnh Quảng Ngãi tái lập vào ngày 01/7/1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Đơn vị hành chính: Tỉnh Quảng Ngãi có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố trực thuộc trung ương, 13 huyện (gồm 1 huyện đảo, 7 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi) với 184 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 9 phường, 9 thị trấn và 166 xã.
Dân số: Tổng số dân: 1.231,9 nghìn người. Trong đó dân số nam trung bình là 608,9 nghìn người và dân số nữ trung bình là 623 nghìn người. Tỉ số giới tính của dân số (nam/100 nữ) là: 97,7; dân số thành thị trung bình là 201,5 nghìn người và dân số nông thôn trung bình là 1.030,4 nghìn người. Mật độ dân số là 239 người/km2.
Năm 2019, Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 55.102 tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018, đạt kế hoạch năm. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 29.162,9 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực dịch vụ ước đạt 16.948,8 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.990,3 tỷ đồng, tăng 3,5% so với năm 2018. GRDP không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 37.710,5 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 2018. GRDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/người, tương đương 2.868 USD/người, vượt kế hoạch (kế hoạch: 2.682 USD).
Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,64%; dịch vụ 29,17%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 17,19%.
Thu nhập bình quân: 3.084.000đ/người/tháng. Trong đó, nhóm có thu nhập cao nhất là 6.938.000đ/người/tháng, nhóm có thu nhập thấp nhất là 928.000đ/người/tháng, khoảng cách thu nhập giữa nhóm cao nhất và thấp nhà là 7,5 lần.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2019 theo nguồn thu: từ tiền lương, tiền công là 1.552 nghìn đồng; từ nông lâm nghiệp thủy sản là 440 nghìn đồng; từ phi nông lâm nghiệp thủy sản là 691 nghìn đồng.
-Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so với dân số là 58,9%. Tỉ lệ thất nghiệp chung là 2,47%. Tỷ lệ thất nghiệp của nam là 2,48%; của nữ là 2,46%. Tỉ lệ thiếu việc làm chung là 1,67%. Tỉ lệ thiếu việc làm của nam là 1,46%; của nữ là 1,92%.
-Tỷ lệ hộ nghèo là 8,4%.
Về giáo dục: Số trường phổ thông là 390 trường. Tổng số giáo viên phổ thông là 11.357 người, trong đó nữ giáo viên là 8.061 người. Tổng số học sinh phổ thông là 212.776 người, trong đó số học sinh nữ là 105.664 người. Số học sinh phổ thông thuộc các dân tộc thiểu số là 38.544 người. Tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ là 93,3%.
Trình độ học vấn trung bình của cư dân: Dưới tiểu học 13,4%, tiểu học 25,6%, THCS 31,1%, THPT 12,4%, Sơ -Trung cấp 6,1%, Cao đẳng và đại học trở lên 11,5%.
Trình độ học vấn trung bình của nam: Dưới tiểu học 9,2%, tiểu học 24%, THCS 33,3%, THPT 14,1%, Sơ -Trung cấp 7,3%, Cao đẳng và đại học trở lên 12,1%.
Trình độ học vấn trung bình của nữ: Dưới tiểu học 17,5%, tiểu học 27,1%, THCS 29%, THPT 10,7%, Sơ -Trung cấp 4,9%, Cao đẳng và đại học trở lên 11%.
Về y tế: Số giường bệnh là 4.037 giường. Số bác sỹ là 1.024 người. Tỷ lệ trẻ em dưới một tuổi được tiêm chủng đầy đủ cá loại vắc xin là 96,3%.
- Tỉ số giới tính khi sinh là: 109,4 (thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung.)
-Vấn đề di cư: tỉ suất nhập cư là 1,3 phần nghìn; Tỉ suất xuất cư là 9,6 phần nghìn. Tỷ suất di cư thuần là -8,3 phần nghìn.
Cơ cấu dân tộc gồm: người Kinh chiếm 84,8%. 35 dân tộc thiểu số chiếm 15,2%. Trong đó có các dân tộc như Hrê 10,8%, Co 2,7%, Xơ Đăng 1,6% và các dân tộc khác.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 10 tôn giáo khác nhau chiếm 70.454 người, trong đó nhiều nhất là Đạo Tin Lành có 31.996 người (chiếm 45,4%), Phật giáo với 23.220 người (chiếm 33%), Công giáo có 9.226 người (chiếm 13,1%), Đạo Cao Đài có 6.000 người (chiếm 8,5%), còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo mỗi đạo có ba người, Bà la môn và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có hai người, ít nhất là Bửu sơn kỳ hương và Bahá'í mỗi đạo có một người.