Hà Nam nằm ở Tây Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội với diện tích đất tự nhiên 86.193 ha; có thành phố Phủ Lý là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của tỉnh, cách Hà Nội 58 km. Hà Nam có mạng lưới giao thông rất thuận lợi, là tỉnh nằm trên trục đường sắt Bắc Nam và quốc lộ 1A – huyết mạch giao thông quan trọng của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu hợp tác kinh tế với các tỉnh, thành phố và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước cũng như từ đó tới các cảng biển, sân bay ra nước ngoài.
Đơn vị hành chính: 1 thành phố trực thuộc trung ương, 5 huyện, 11 phường,7 thị trấn, 98 xã.
Dân số: Tổng số dân: 854,5 nghìn người. Trong đó dân số nam trung bình là 420,6 nghìn người và dân số nữ trung bình là 433,8 nghìn người. Tỉ số giới tính của dân số (nam/100 nữ) là: 97; dân số thành thị trung bình là 143,3 nghìn người chiếm 19% và dân số nông thôn trung bình là 711,2 nghìn người (81%). Mật độ dân số là 991 người/km2. Tỷ lệ đô thị hóa ở Hà Nam tính đến năm 2020 là 37,15%.
Giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân của Tỉnh đạt 11,14%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, đến nay, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chiếm 91,6%, tỷ trọng nông nghiệp giảm nhanh và phát triển theo hướng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; GRDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 70 triệu đồng; Hà Nam nằm trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. (http://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1184/64126/ha-nam-phan-dau-dat-muc-cao-nhat-cac-chi-tieu-kinh-te-xa-hoi.aspx)
Thu nhập bình quân: 3.928.000đ/người/tháng. Trong đó, nhóm có thu nhập cao nhất là 8.257.000đ/người/tháng, nhóm có thu nhập thấp nhất là 1.197.000đ/người/tháng, khoảng cách thu nhập giữa nhóm cao nhất và thấp nhà là 6,9 lần.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2019 theo nguồn thu: từ tiền lương, tiền công là 1.968 nghìn đồng; từ nông lâm nghiệp thủy sản là 436 nghìn đồng; từ phi nông lâm nghiệp thủy sản là 960 nghìn đồng.
-Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so với dân số là 56%. Tỉ lệ thất nghiệp chung là 1,82%. Tỷ lệ thất nghiệp của nam là 1,96%; của nữ là 1,67%. Tỉ lệ thiếu việc làm chung là 0,73%. Tỉ lệ thiếu việc làm của nam là 0,66%; của nữ là 0,8%.
-Tỷ lệ hộ nghèo là 2,3%.
Về giáo dục: Số trường phổ thông là 262 trường. Tổng số giáo viên phổ thông là 6.750 người, trong đó nữ giáo viên là 5.630 người. Tổng số học sinh phổ thông là 146.426 người, trong đó số học sinh nữ là 72.318 người. Số học sinh phổ thông thuộc các dân tộc thiểu số là 268 người. Tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ là 98,6%.
Trình độ học vấn trung bình của cư dân: Dưới tiểu học 3,5%, tiểu học 14,9%, THCS 47,5%, THPT 16,5%, Sơ -Trung cấp 6%, Cao đẳng và đại học trở lên 11,6%.
Trình độ học vấn trung bình của nam: Dưới tiểu học 1,9%, tiểu học 11,9%, THCS 47,8%, THPT 19%, Sơ -Trung cấp 7,9%, Cao đẳng và đại học trở lên 11,5%.
Trình độ học vấn trung bình của nữ: Dưới tiểu học 4,9%, tiểu học 17,6%, THCS 47,2%, THPT 14,2%, Sơ -Trung cấp 3,4%, Cao đẳng và đại học trở lên 11,7%.
Về y tế: Số giường bệnh là 3.350 giường. Số bác sỹ là 547 người. Tỷ lệ trẻ em dưới một tuổi được tiêm chủng đầy đủ cá loại vắc xin là 99,1%.
- Tỉ số giới tính khi sinh là: 111,5 (thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng.)
-Vấn đề di cư: tỉ suất nhập cư là 3,3 phần nghìn; Tỉ suất xuất cư là 9,3 phần nghìn. Tỷ suất di cư thuần là -3,4 phần nghìn.
Cơ cấu dân tộc gồm: người Kinh chiếm 99,8%. Dân tộc thiểu số chiếm 0,2%. Trong đó có các dân tộc như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 172.053 người, nhiều nhất là Công giáo có 114.689 người, tiếp theo là Phật giáo có 57.277 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 79 người, Minh Lý đạo có ba người, Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi tôn giáo có hai người và 1 người theo đạo Cao Đài.