Background

Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Trang chủ » Giới thiệu đề tài nghiên cứu

            Theo quan điểm phát triển bao trùm, bình đẳng giới cần được coi là một nội dung trọng tâm trong phát triển, cần lồng ghép trong mọi chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tham gia, đóng góp và thụ hưởng công bằng. Thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ trong quá trình phát triển xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển vì phụ nữ có xu hướng là nhóm bị bỏ lại đằng sau trong hầu hết các xã hội. Bên cạnh đó, phụ nữ chiếm một nửa dân số và lực lượng lao động hiện nay, thúc đẩy cơ hội phát triển cho nguồn nhân lực nữ thuộc các tầng lớp xã hội, nhất là nhóm phụ nữ chất lượngcao và nhóm phụ nữ còn khó khăn sẽ góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn giữa các vùng miền, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất nước. 

            Đảng và Nhà nước luôn coi trọng bình đẳng giới. Từ văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân nghèo, các sản nghiệp lớn cho công nhân mà còn nhằm “thực hiện nam nữ bình quyền”. Các kì Đại hội của Đảng đều khẳng định tầm quan trọng của bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ.

Tại Việt Nam, bình đẳng giới theo hướng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ luôn là một trọng tâm ưu tiên nhằm tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao đóng góp và vai trò của phụ nữ và thực hiện hàng loạt các chính sách cả cấp vĩ mô và vi mô nhằm tăng cường bình đẳng giới, thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, và đảm bảo phụ nữ được bảo vệ, chăm sóc và phát triển. Từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến nay, bình đẳng nam nữ và bảo vệ quyền lợi phụ nữ luôn được khẳng định. Quốc hội, Chính phủ đã ban hành rất nhiều luật và văn bản quy phạm pháp luật có nội dung bảo đảm bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, Luật Dân số, Luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, vv. Các bộ luật này cùng với nền tảng văn hóa-xã hội đương đại đang góp phần quan trọng định hướng giá trị và khuôn mẫu hành vi của gia đình, cộng đồng và xã hội về bình đẳng giới và phụ nữ.

Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia Đông Nam Á có tốc độ khắc phục cách biệt giới nhanh nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Theo báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu năm 2007 mà Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, xét trong khu vực ASEAN và Đông Á, Việt Nam đứng ở ngôi vị thứ hai về mức độ bình đẳng giới. Trong khu vực ASEAN, mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước dẫn đầu, nếu xét về chỉ số GII. Hiện nay Việt Nam chỉ đứng thứ 3 (sau Singapore và Malaysia)[1]. Theo báo cáo phát triển con người năm 2012 do UNDP công bố, Việt Nam xếp thứ thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao) và được đánh giá đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới. Đến năm 2014, Việt Nam xếp thứ 60, với chỉ số =0.307 và năm 2015, Việt Nam xếp thứ 71 trong các nước được phân tích về GII. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, trong giai đoạn từ 2007 – 2017, Việt Nam đứng vào nhóm trung bình trong số các quốc gia được phân tích về bình đẳng giới. Năm 2017, Việt Nam đứng thứ 69/144 quốc gia về chỉ số khoảng cách giới.

Bình đẳng giới là một trọng tâm trong phát triển. Thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ trong quá trình phát triển xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển vì phụ nữ có xu hướng là nhóm bị bỏ lại đằng sau trong hầu hết các xã hội. Bên cạnh đó, phụ nữ chiếm một nửa dân số và lực lượng lao động hiện nay, thúc đẩy cơ hội phát triển cho nguồn nhân lực nữ thuộc các tầng lớp xã hội, nhất là nhóm phụ nữ chất lượng cao và nhóm phụ nữ còn khó khăn sẽ góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn giữa các vùng miền, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất nước. 

Thực tế cho thấy, bình đẳng giới hiện nay còn nhiều thách thức. Sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị hay bình đẳng giới trong chính trị chưa đạt được chỉ tiêu đề ra về tỷ lệ và còn hạn chế về chất lượng tham gia. Vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế còn cần quan tâm đến quyền bình đẳng của phụ nữ, đặc biệt các nhóm phụ nữ yếu thế đối với các nguồn lực kinh tế, cũng như tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản, quyền sở hữu và kiểm soát đất đai và các dạng tài sản khác, quyền thừa kế, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ mới phù hợp và các dịch vụ tài chính. Trong lĩnh vực lao động, bất bình đẳng về vị thế việc làm, chất lượng việc làm, tiền lương, thu nhập vẫn còn tồn tại. Bình đẳng giới trong giáo dục đào tạo cũng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại chưa được giải quyết. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, các vấn đề liên quan đến xây dựng và nâng cấp các cơ sở giáo dục thân thiện với trẻ em, người tàn tật và bình đẳng giới và cung cấp môi trường học tập an toàn, không bạo lực, toàn diện và hiệu quả cho tất cả mọi người; kiến thức và kỹ năng cần thiết để thúc đẩy phát triển bền vững cần chú trọng hơn. Trong lĩnh vực y tế, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất chết mẹ trong 10 năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tình trạng bạo lực trên cơ sở giới chưa được giải quyết hiệu quả. Trong trong đời sống gia đình, định kiến về vai trò giới truyền thống vẫn thể hiện rõ nét qua sự hạn chế hơn của phụ nữ trong quyền quyết định, phân công lao động trong gia đình. Sự tham gia của phụ nữ và bình đẳng giới trong khoa học công nghệ còn ít được quan tâm, chưa phản ánh được đầy đủ các vấn đề bất bình đẳng giới cũng như sự hạn chế của phụ nữ ở lĩnh vực khoa học công nghệ trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Bình đẳng giới trong văn hóa, thông tin và thể dục thể thao còn rất ít được quan tâm.  Bình đẳng giới trong tiếp cận hệ thống dịch vụ công (gồm cả dịch vụ giáo dục, y tế) và các hệ thống, biện pháp an sinh xã hội cho các nhóm phụ nữ dễ bị tổn thương, gồm: nhóm thất  nghiệp, người  già,  người  khuyết  tật,  phụ  nữ  mang  thai/mới  sinh,  nạn  nhân  do  tai  nạn  nghề  nghiệp, người nghèo, phụ nữ dân tộc thiểu số chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.

Định kiến giới về vai trò phụ nữ trong gia đình và xã hội là một lực níu lớn đối với cơ hội phát triển của phụ nữ. Để đạt được vị trí như nam giới, phụ nữ phải lao động vất vả hơn nhiều vì vừa phải đảm bảo vai trò giới truyền thống, đảm bảo chức năng sinh đẻ, để vượt qua các định kiến xã hội về phụ nữ tham gia chính trị, kinh tế và để giành được vị thế trong một hệ thống chính trị mà nam giới chiếm đa số. Trong đó, yếu tố gánh nặng gia đình là một trong những cản trở lớn với phụ nữ. Các nghiên cứu cho thấy, cả phụ nữ và nam giới đều muốn một người phụ nữ thành đạt là phải vừa có gia đình hạnh phúc (theo nghĩa phụ nữ tề gia nội trợ tốt, dành thời gian chăm sóc gia đình) vừa có những phẩm chất hiện đại như có kiến thức, hiểu biết xã hội, có việc làm, vv. Có nghĩa là, phụ nữ hiện nay phải gánh vác tiêu chuẩn kép trong một xã hội chưa có hệ thống dịch vụ xã hội hỗ trợ hoàn thiện.

Phụ nữ đóng góp khoảng một nửa dân số và một nửa lực lượng lao động ở Việt Nam hiện nay. Ở gia đình, phụ nữ đảm nhiệm chính các công việc nội trợ và chăm sóc thành viên, bao gồm cả người cao tuổi và trẻ em. Với sự tham gia rộng rãi cả vai trò gia đình và xã hội, phụ nữ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và phồn thịnh chung của đất nước. Phụ nữ cũng có nguy cơ đứng trước nhiều xung đột vai trò, trách nhiệm, quyền lợi, khi vừa tham gia làm việc, vừa đảm bảo các chức năng chính của gia đình, nếu không có một hệ thống chính sách và dịch vụ hỗ trợ phù hợp.

Việc xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2010-2020 không có điều kiện thực hiện nghiên cứu đầu vào cấp quốc gia về các chỉ số bình đẳng giới trên các lĩnh vực, nên có những khó khăn nhất định trong việc đánh giá kết quả thực hiện. Việt Nam vừa ban hành Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021-2030, việc có một điều tra, nghiên cứu tổng thể về các lĩnh vực của bình đẳng giới làm cơ sở dữ liệu đầu vào cho việc theo dõi, giám sát các chỉ tiêu và thống kê về BĐG trong giai đoạn 10 năm là rất có ý nghĩa và cần thiết, góp phần trực tiếp vào triển khai các chiến lược kinh tế xã hội của Việt Nam 2021-2030 và tầm nhìn 2045.

            Đồng thời, hiện nay Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế về bình đẳng giới, đảm bảo quyền cho phụ nữ và phát triển bền vững cũng như thực thi các quan điểm, định hướng thúc đẩy bình đẳng giới của Đảng và Chính phủ Việt Nam. Trong 10 năm tới, Việt Nam cần nhận diện thực trạng bình đẳng giới một cách sâu rộng để có giải pháp hiệu quả đạt được các mục tiêu bình đẳng giới vào năm 2030 trong mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đã được Liên hiệp quốc thông qua.

Trong những thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng những bất ổn xã hội có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên, vv. nên đảm bảo bình đẳng xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau là quan trọng trong quá trình phát triển. Các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc đến năm 2030 đều có liên quan đến vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới, cho thấy thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ, có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển.

            Việc triển khai nhiệm vụ cấp quốc gia “Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về bình đẳng giới phục vụ phát triển bền vững” là hết sức cần thiết cả về lí luận và thực tiễn, góp phần làm rõ thực trạng quan hệ giới và những tiến bộ của nam giới và phụ nữ trên các lĩnh vực, cho phép phân tích những cơ hội và rào cản, cung cấp căn cứ xây dựng các khuyến nghị chính sách về bình đẳng giới và phát triển kinh tế xã hội phù hợp trong giai đoạn tới.

            Đồng thời, để đóng góp toàn diện hơn, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu, đánh giá tổng thể về bình đẳng giới, việc xây dựng hệ thống thông tin cơ bản, toàn diện về bình đẳng giới nhằm cung cấp dữ liệu đầu vào cho việc đánh giá việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng như mục tiêu bình đẳng giới và phát triển bền vững của Việt Nam trên các lĩnh vực: i) Chính trị, lãnh đạo quản lý; ii) Giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ; iii) Kinh tế, lao động- việc làm; iv) Chăm sóc sức khỏe; v) Gia đình; vi) Phòng ngừa và ứng phó bạo lực trên cơ sở giới; vii) Ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và thảm họa môi trường, sẽ cung cấp dữ liệu đầu vào cho việc đánh giá kết quả thực hiện các cam kết quốc tế của Chính phủ Việt Nam về bình đẳng giới và phát triển bền vững cũng như chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045. Từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu phát triển bền vững.

[1] Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” (UNDP)